Diễn biến Trận_chiến_biển_Bismarck

Đường đi của các tàu Nhật (màu đen) và các cuộc không kích của Đồng Minh (đỏ) trong suốt trận đánh

Những cuộc tấn công đầu tiên

Ngày 28 tháng 2 năm 1943, đoàn tàu chuyển vận Nhật gồm tám khu trục hạm và tám chuyển vận hạm, yểm trợ bởi 100 chiến đấu cơ đã xuất phát từ cảng Simpson tại Rabaul.[41] Trong suốt tháng 1, lộ trình các đoàn tàu Nhật Bản là đi sát bờ biển phía nam New Britain. Điều này giúp cho không quân yểm trợ dễ dàng hơn nhờ gần các sân bay nhưng bù lại không quân Đồng Minh khi tấn công đoàn tàu sẽ cùng lúc có thể tấn công cả các sân bay. Trong chuyến đi này, đoạn hải trình được chọn là dọc bờ biển phía bắc, nhằm đánh lạc hướng Đồng Minh về vị trí đoàn tàu sẽ đến là Madang. Ngoài ra, nếu không quân Đồng Minh tấn công, các máy bay sẽ phải bay ngang New Britain và bị các máy bay Nhật đón chặn. Tuy nhiên đoạn cuối hải trình sẽ là vô cùng nguy hiểm do phải đi qua khu vực bị hạn chế là eo Vitiaz.[42] Người Nhật đặt tên mã cho đoàn tàu là "Chiến dịch 81."[43]

Số lính Nhật được đưa lên các khu trục hạm là 958 người và các chuyển vận hạm là 5.954 người. Chỉ huy trưởng Quân đoàn XVIII – Trung tướng Hatazō Adachi – đi trên khu trục hạm Tokitsukaze, trong khi Trung tướng Hidemitsu Nakano - sư đoàn trưởng Sư đoàn 51 là khu trục hạm Yukikaze.[41] Chỉ huy đoàn tàu hộ tống – Chuẩn Đô đốc Kimura Masatomi thuộc Hải đội Khu trục hạm số 3 – kì hạm là chiếc khu trục hạm Shirayuki. Năm chiếc khu trục hạm còn lại là Arashio, Asashio, Asagumo, ShikinamiUranami. Tổng cộng có bảy chuyển vận hạm Lục quân: Aiyo Maru (2.716 tấn), Kembu Maru (950 tấn), Kyokusei Maru (5.493 tấn), Oigawa Maru (6.494 tấn), Sin-ai Maru (3.793), Taimei Maru (2.883 tấn) và Teiyo Maru (6.870 tấn); một chuyển vận hạm của Hải quân Nojima (8.125 tấn).[2][44] Các tàu này đều vận chuyển lính, vũ khí, thuốc men và đạn dược, trừ chiếc Kembu Maru mang 1.000 thùng xăng máy bay và 650 thùng nhiên liệu các loại khác.[45]

Đoàn chuyển vận hạm di chuyển với tốc độ rất chậm chỉ khoảng 7 hải lý/giờ (13 km/giờ)[46] và không bị phát hiện do ảnh hưởng của trận bão gần khu vực Solomon và biển Bismarck từ ngày 27 tháng 2 đến 1 tháng 3. Tuy nhiên vào lúc ba giờ chiều ngày 1 tháng 3, một chiếc B-24 trong khi bay trinh sát đã phát hiện đoàn tàu. Sau đó, tám chiếc B-17 đã được điều đến xem xét nhưng không phát hiện được đoàn tàu.[47]

Rạng sáng ngày 2 tháng 3, sáu oanh tạc cơ Úc RAAF A-20 Bostons đã tấn công Lae để giảm thiểu khả năng yểm trợ của nó đối với đoàn tàu Nhật Bản. Vào khoảng 10 giờ sáng, một chiếc B-24 Liberator khác đã phát hiện ra đoàn tàu. Tám chiếc B-17 cất cánh tấn công và sau đó một tiếng có 20 chiếc nữa nhập cuộc.[48] Các oanh tạc cơ tấn công đoàn tàu bằng những quả bom 450 kg (1.000 lb) từ độ cao 5.000 ft (1.500 m). Ba chiếc chuyển vận hạm đã bị tuyên bố đánh chìm, trong đó có Kyokusei Maru chở 1.200 lính. Hai chiếc Teiyo Maru và Nojima bị thương.[43][49] Ngoài ra phía Nhật còn mất thêm 8 chiến đấu cơ và 13 chiến đấu cơ bị thương.[50]

Hai khu trục hạm Yukikaze và Asagumo đã cứu được 950 người trên tàu Kyokusei Maru, sau đó tách khỏi đội hình để đưa những người vừa cứu đến Lae. Ngày hôm sau, hai chiếc tàu này quay trở lại với nhiệm vụ hộ tống.[49] Đoàn chuyển vận hạm bị tấn công lần nữa vào đêm ngày 2 tháng 3, bởi 11 chiếc B-17 làm một chuyển vận hạm bị thương nhẹ. Đêm hôm đó, những chiếc thủy phi cơ của Không quân Úc PBY Catalina làm nhiệm vụ theo dõi đoàn tàu.[48]

Đòn tấn công chính của Đồng Minh

Phi công Trung úy Torchy Uren của Phi đoàn 30 Không quân Úc đang uống nước trong khoang lái chiếc Beaufighter của mình khi trận đánh còn đang diễn ra.

Ngày 3 tháng 3, đoàn chuyển vận hạm đã đi vào khu vực thuộc tầm hoạt động của Phi đoàn 100 Không quân Úc, căn cứ tại vịnh Milne, được trang bị 100 phi cơ phóng ngư lôi Bristol Beaufort. Do thời tiết xấu nên chỉ hai oanh tạc cơ phát hiện và tấn công đoàn tàu nhưng đều không trúng đích. Khi đoàn tàu đến bán đảo Huon, thời tiết trong xanh trở lại. 90 máy bay Đồng Minh xuất phát từ cảng Moresby bay đến mũi Ward Hunt, trong khi 22 chiếc A-20 Boston của Phi đoàn 22 Không quân Úc tấn công căn cứ không quân Nhật tại Lae để hạn chế sự yểm trợ đoàn tàu của các chiến đấu cơ Nhật. Các cuộc tấn công vào căn cứ này diễn ra trong suốt cả ngày.[51][52]

Lúc 10 giờ sáng, 13 oanh tạc cơ B-17 ném bom đoàn tàu ở độ cao 7.000 feet, làm đoàn tàu bị phân tán và giảm khả năng tập trung hỏa lực phòng không. Các chiến đấu cơ Mitsubishi A6M Zero của Nhật và P-38 của Mỹ cũng lao vào cuộc chiến trên không. Một chiếc B-17 bị gãy đôi trên không trung và tổ lái buộc phải nhảy dù thoát ra. Trong khi những thành viên tổ lái còn đang bung dù lơ lửng hoặc vừa rơi xuống nước, họ trở thành mục tiêu cho các phi công Nhật xả súng máy vào.[51] Năm chiến đấu cơ Nhật trong khi làm việc này đã bị bắn hạ, phía Mỹ cũng mất ba chiến đấu cơ Lightning.[25] Các phi công chiến đấu cơ Đồng Minh tuyên bố hạ được 15 chiếc Zero và các xạ thủ trên B-17 tuyên bố hạ được 5 chiếc nữa.[51][52] Trên thực tế, chỉ có bảy chiến đấu cơ Nhật bị phá hủy và ba chiếc bị thương.[50] Oanh tạc cơ B-25 bay đến sau đó đã thả những quả bom nặng 500-pound từ độ cao 3.000 đến 6.000 feet, làm cho hai tàu Nhật trong lúc hoảng loạn đã va vào nhau. Cuộc tấn công của các phi cơ B-17 và B-25 khiến đoàn tàu Nhật bị phân tán và hỏa lực phòng không tập trung vào cao độ tầm trung, tạo ra sơ hở ở cao độ tầm thấp.[25]

Máy bay Đồng Minh đang tấn công các tàu Nhật Bản ở cao độ thấp

13 chiếc Beaufighter thuộc Phi đoàn 30 Không quân Úc bay đến tấn công đoàn tàu ở cao độ thấp. Các thủy thủ Nhật nhận định sai lầm rằng những chiếc Beaufort chuẩn bị tấn công bằng ngư lôi nên cho đoàn tàu trở hướng đối mặt với những chiếc oanh tạc cơ trên, giảm thiểu khả năng bị trúng ngư lôi. Điều này giúp cho những chiếc Beaufighter dễ dàng tiêu diệt những ụ pháo phòng không, bắn phá đài chỉ huy của tàu và giết chết các thuỷ thủ bằng bốn khẩu pháo 20 mm (0.79 in) ở đầu mũi và sáu khẩu súng máy 7,7 mm (.303 in) ở cánh.[51][a] Ngay sau đó, bảy chiếc B-25 của Phi đoàn Oanh tạc cơ 38 bay đến ném bom ở độ cao khoảng 750 m (2.460 ft), trong khi sáu chiếc khác thuộc Phi đoàn 405 oanh tạc ở tầm cực thấp.[51][52]

Khu trục hạm Shirayuki là nạn nhân đầu tiên của cuộc oanh tạc. Toàn bộ những người có mặt tại đài chỉ huy đều bị thương vong, trong đó Chuẩn đô đốc Kimura bị thương. Một quả bom trúng kho vũ khí làm phát nổ, phá huỷ đuôi tàu và chiếc tàu bắt đầu chìm xuống. Lệnh bỏ tàu được ban ra và thuỷ thủ đoàn chuyển sang chiếc Shikinami. Khu trục hạm Tokitsukaze cũng bị thương chí tử sau đợt bom. Thuỷ thủ đoàn của nó được chuyển sang chiếc Yukikaze. Trong khi đó, khu trục hạm Arashio sau khi trúng bom đã đâm vào chuyển vận hạm Nojima, khiến cả hai chiếc tàu bị tê liệt và buộc phải bỏ lại. Nojima sau đó đã bị máy bay đánh chìm.[53]

14 chiếc B-25 trở về trong chiều hôm đó và tuyên bố đã ném bom trúng hoặc gần trúng 17 lần. Đến lúc này, 1/3 số chuyển vận hạm đã bị chìm hoặc đang chìm. Khi tất cả oanh tạc cơ Beaufighter và B-25 đều hết đạn, một số chiếc A-20 Havoc của Không quân Mỹ bắt đầu nhảy vào tấn công. Về phần các cuộc tấn công tầm cao, phi công những chiếc B-17 của Liên đoàn 43 tuyên bố ném trúng 5 lần. Đến buổi chiều, B-26 Không quân Mỹ và Boston Không quân Úc tiếp tục tấn công.[54]

Garrett Middlebrook, phi công của một chiếc oanh tạc cơ B-25 miêu tả lại cuộc tấn công:

Các máy bay bay đến tấn công các tàu chở quân. Những gì tôi thấy giống như những cái que, dài khoảng một foot hay đại loại thế, hoặc những mảnh vụn văng ra khỏi boong tàu; chúng bay khắp nơi... quay tròn trên trời và sau đó rơi xuống nước. Sau đó tôi mới nhận ra đó chính là những con người, hàng trăm lính Nhật trên boong tàu bị thổi bay đi bởi hỏa lực súng máy. Họ xoay tít trong không khí như những cái que trong cơn gió lốc rồi sau đó rơi xuống nước.[55]

Trận đánh kết thúc

Cả bảy chuyển vận hạm đều bị trúng bom và hầu hết đều bị cháy hoặc chìm ở vị trí khoảng 100 km phía đông nam Finschhafen. Các khu trục hạm Shirayuki, Tokitsukaze và Arashio cũng chịu chung số phận. Bốn khu trục hạm Shikinami, Yukikaze, Uranami và Asagumo ra sức vớt những người còn sống sót càng nhiều càng tốt và rút lui về Rabaul, ngoài ra còn có khu trục hạm Hatsuyuki cũng từ Rabaul đến yểm trợ.[53] Đêm đó, mười chiếc ngư lôi đỉnh của Hải quân Hoa Kỳ, do Thiếu tá Barry Atkins chỉ huy tiến tới tấn công. Hai chiếc không may va phải mảnh vỡ dưới biển, buộc phải chạy về. Tám chiếc còn lại hướng về phía Lae khi ngày 4 tháng 3 bắt đầu. Atkins nhìn thấy chiếc chuyển vận hạm Oigawa Maru đang cháy. Hai ngư lôi đỉnh PT-143 và PT-150 đã phóng ngư lôi vào chiếc tàu đã bị tê liệt này. Vào lúc sáng, khu trục hạm Asashio trở thành nạn nhân cuối cùng khi trúng một quả bom 500 lb (230 kg) từ một chiếc B-17 khi đang vớt người còn sống sót từ khu trục hạm Arashio.[56]

Tàu Nhật Kenbu Maru đang bị tấn công và bốc cháy.

2.700 lính Nhật sống sót đã được đưa về Rabaul bằng khu trục hạm, khoảng 1.000 người còn trôi dạt trên biển trên những xuồng cứu sinh hoặc khúc gỗ.[53] Từ ngày 3 đến 5 tháng 3, các ngư lôi đỉnh và máy bay Đồng Minh đã tấn công những xuồng cứu sinh này và cả những lính Nhật đang nổi lềnh bềnh trên mặt biển. Điều này sau đó được bào chữa là nếu để những lính Nhật này sống sót, họ sẽ mau chóng quay lại chiến đấu[57] cũng như để trả đũa hành động tương tự mà các chiến đấu cơ Nhật đã làm với phi hành đoàn chiếc oanh tạc cơ B-17 bị bắn rơi.[25] Trong khi một số phi công Đồng Minh chấp nhận điều này là cần thiết, một số tỏ ra vô cùng kinh tởm.[58] Ngày 6 tháng 3, hai tàu ngầm Nhật I-17I-26 cứu sống thêm 170 người. Hai ngày sau, I-26 phát hiện và cứu sống 54 người nữa, sau đó đưa họ đến Lae.[53] Hàng trăm người tự bơi hoặc bị trôi dạt vào các hòn đảo xung quanh. Một nhóm 18 lính Nhật trôi đến Kiriwina thì bị bắt giữ bởi chiếc ngư lôi đỉnh PT-114. Một số đến được Guadalcanal nhưng bị lính Mỹ tuần tra giết chết.[59]

Ngày 4 tháng 3, quân Nhật cho tiến hành cuộc không kích trả đũa vào sân bay Buna, nơi mà quân Đồng Minh tái chiếm vào tháng 1 nhưng không gây nhiều thiệt hại. Tướng Kenney trong hồi ký của mình đã gọi cuộc tấn công này là "mất bò mới lo làm chuồng" và thể hiện sự ngu ngốc của các sĩ quan chỉ huy không quân Nhật vì đáng lẽ số máy bay này đã phải được huy động để bảo vệ đoàn tàu vào ngày 3 tháng 3.[25]

Trên đảo Goodenough, lính Úc tuần tra thuộc Tiểu đoàn Bộ binh 47, đã phát hiện và giết chết 72 lính Nhật, bắt giữ 42 người và tìm thấy chín xác chết trên một chiếc xuồng cứu sinh từ ngày 8 đến 14 tháng 3 năm 1943. Một cuộc tuần tra giết chết 8 lính Nhật lên bờ bằng hai xuồng đáy phẳng, đã phát hiện một số tài liệu mật. Các tài liệu này sau khi được dịch ra đã cho thấy đây là danh sách thuộc về Lục quân Nhật, trong đó có tên và chức vụ tất cả sĩ quan Lục quân Nhật. Điều này giúp cho Đồng Minh nắm được mệnh lệnh chiến đấu của quân Nhật, trong đó có những đơn vị mà trước đó chưa hề được biết đến. Bất kì một sĩ quan Nhật nào xuất hiện, Đồng Minh từ đó sẽ truy ra được đơn vị dưới quyền của ông ta. Tài liệu này giúp cho các cơ quan tình báo Đồng Minh nắm được mọi tình hình mọi đơn vị Nhật tham chiến trên các mặt trận.[60][61]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_chiến_biển_Bismarck http://ajrp.awm.gov.au/ajrp/ajrp2.nsf/Web-Pages/So... http://www.awm.gov.au/histories/second_world_war/A... http://www.awm.gov.au/histories/second_world_war/A... http://www.awm.gov.au/histories/second_world_war/A... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/67060 http://www.historynet.com/battle-of-the-bismarck-s... http://www.airforcehistory.hq.af.mil/Publications/... http://afhra.maxwell.af.mil/numbered_studies/46769... http://www.nationalmuseum.af.mil/factsheets/factsh... http://www.history.army.mil/books/wwii/MacArthur%2...